Thể thao

Cỡ chữ
A A
Từ viết tắt Đọc bài viết
× Đọc bài viết Tạm dừng Đọc tiếp Dừng đọc Đang tải...
Vui lòng chờ giây lát
× Bài viết không có file audio
Tương phản

Phát triển TDTT quần chúng theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh và tinh thần nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng

17/02/2012 | 14:14

Các chủ trương, chính sách  của Đảng, Nhà nước về TDTT luôn được vận dụng linh hoạt, sáng tạo và gắn liền với cuộc vận động “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại”. Xác định được nhiệm vụ cụ thể để thúc đẩy sự phát triển của Thể thao Việt Nam nói chung, phong trào TDTT quần chúng nói riêng là một trong những yêu cầu cấp thiết và có ý nghĩa quan trọng nhằm đáp ứng yêu cầu của thời kỳ hội nhập. Bên cạnh đó, cần tạo ra những cơ chế, chính sách phù hợp để quản lý, điều hành các hoạt động TDTT quần chúng theo đúng định hướng của Đảng, Nhà nước. 

Những bước phát triển của phong trào TDTT quần chúng

Tháng 1 năm 1946, Chủ tịch Chính phủ Liên hiệp Lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa có Sắc lệnh “Thiết lập tại Bộ Thanh niên một Nha Thể dục TW với nhiệm vụ liên hệ mật thiết với Bộ Y Tế và Bộ Quốc gia Giáo dục nghiên cứu phương pháp và thực hành Thể dục trong toàn quốc”. Tháng 3 năm 1946, Chủ Tịch Hồ Chí Minh viết bài báo “Sức khỏe và thể dục”  hô hào đồng bào tập thể dục. Hai sự kiện này đã đánh dấu sự ra đời của nền TDTT cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Tháng 3 năm 1960, Bác Hồ gửi thư cho Hội nghị cán bộ TDTT toàn miền Bắc. Trong thư, có đoạn Bác viết “Muốn lao động, sản xuất tốt, công tác và học tập tốt thì cần có sức khoẻ. Muốn có sức khoẻ thì nên thường xuyên luyện tập TDTT. Vì vậy chúng ta nên phát triển phong trào TDTT rộng khắp”.

Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI chỉ rõ “...Cần phát triển mạnh phong trào TDTT đại chúng nhằm nâng cao sức khoẻ nhân dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và tăng tuổi thọ của người Việt Nam...”

Luật TDTT năm 2006 quy định: “Cơ quan quản lý Nhà nước về TDTT các cấp phối hợp với tổ chức xã hội nghề nghiệp về thể thao, vận động mọi người tham gia phát triển phong trào TDTT, phổ biến kiến thức, hướng dẫn luyện tập TDTT phù hợp với sở thích, lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp; bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho cộng tác viên TDTT cơ sở...”.

Theo quy định của Luật Thể dục thể thao, TDTT quần chúng là một bộ phận quan trọng của TDTT cho mọi người;  là hoạt động tập luyện, biểu diễn, thi đấu các bài tập thể dục và các môn thể thao của tất cả mọi người  trong cộng đồng 54 dân tộc anh em. Đối tượng của thể dục thể thao quần chúng là toàn dân, không phân biệt lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp, tôn giáo, chính trị, tình trạng sức khoẻ và nơi cư trú.

Mục tiêu của thể thao quần chúng là củng cố, nâng cao sức khoẻ, phát triển thể chất, kéo dài tuổi thọ, chất lượng cuộc sống; đáp ứng nhu cầu vận động, vui chơi, giải trí, giao lưu văn hoá của các tổ chức và cá nhân trong xã hội, góp phần đào tạo nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước với phương châm “Dân cường thì quốc thịnh” và với khẩu hiệu “Khoẻ để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.

Năm 1946, sau ngày Bác Hồ hô hào đồng bào tập thể dục, một phong trào “Khỏe vì nước” để kiến thiết quốc gia đã được Nha thanh niên và thể dục thuộc Bộ quốc gia giáo dục phát động rầm rộ trong cả nước, thu hút hàng vạn người, nhất là thanh niên tham gia tập thể dục với các môn thể thao phổ biến như: Chạy, Bóng đá, Bóng bàn, Xe đạp, Đấm bốc, Võ cổ truyền...

Trong xuốt 9 năm trường kỳ kháng chiến, tại chiến khu Việt bắc, bộ đội, cán bộ, dân công, dân quân, du kích... đều có thói quen tập thể dục, chơi thể thao. Còn tại vùng tự do kháng chiến, nhiều môn như: Võ thuật, Bóng đá, Bóng chuyền, Bóng bàn, Xe đạp.... được các Võ sư hướng dẫn viên, huấn luyện nên có rất nhiều người, thuộc mọi đối tượng tham gia, phong trào phát triển mạnh, góp phần phục vụ cho kháng chiến thành công.

Trong giai đoạn 1954 – 1975, các phong trào “ Thể dục vệ sinh” trong trường học; “Chạy nối liền Bắc Nam”, “Luyện vai trăm cân, luyện chân ngàn dăm” trong thanh thiếu niên; “ Chạy, nhảy, Bơi, Bắn, Võ” trong công nhân viên chức, dân quân tự vệ, lực lượng vũ trang; “Rèn luyện thân thể theo tiêu chuẩn”, “Toàn xã biết bơi”, “ Câu lạc bộ sức khỏe ngoài trời”, “Xây dựng các điển hình tiên tiến về TDTT”... trong mỗi cơ quan, đơn vị, địa phương được phát triển rất mạnh với các môn: Chạy, Đi bộ, Bơi lội, Thể dục sản xuất, Thể dục quân sự, Thể thao quốc phòng, Thể thao dân tộc, Bóng đá, Bóng chuyền, Bóng bàn...

Nhiều giải thể thao, ngày hội văn hóa thể thao được tổ chức định kỳ trong mỗi cơ quan, đơn vị, địa phương, công nông lâm trường, hợp tác xã, xí nghiệp, nhà máy... cùng với phong trào “ Thanh niên 3 sẵn sàng, Phụ nữ 3 đảm đang” đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng XHCN ở miền Bắc và chi viện cho miền Nam chống Mỹ cứu nước.

Sau chiến thắng vĩ đại mùa xuân năm 1975, non sông về một mối, cả nước cùng đi lên CNXH, nhất là từ khi Đảng ta chủ trương đường lối đổi mới thì công tác TDTT nói chung và phong trào TDTT quần chúng nói riêng được phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết, tạo được những thành tựu hết sức quan trọng trong việc nâng cao sức khỏe, thể lực của toàn dân, phục vụ sự nghiệp CNH,HĐH đất nước.

Phong trào“Xây dựng các điển hình tiên tiến về TDTT” nhanh chóng lan rộng trong các tỉnh phía nam sau giải phóng và đến năm 1980 thì trở thành cuộc vận động"Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại" gắn với phong trào” ”Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” diễn ra trong cả nước với mục tiêu : khỏe để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, mỗi người chọn cho mình một môn thể thao hoặc một hình thức rèn luyện thân thể, nâng cao sức khỏe và chất lượng cuộc sống

Năm 1994, Ban bí thư TW Đảng ban hành Chỉ thị 36/CT-TW, năm 2002 ban hành Chỉ thị 17/CT-TW về công tác TDTT ; năm 2006 Quốc hội thông qua Luật thể dục, thể thao.Đó là những cơ sở tư tưởng, chính trị, pháp lý hết sức quan trọng thể hiện quan điểm của Đảng, đường lối, chính sách của nhà nước đối với công tác TDTT. Trên cơ sở đó, năm 2005 Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình phát triển TDTT ở xã phường thị trấn; năm 2010 phê duyệt  Chiến lược phát triển TDTT đến năm 2020; năm 2011 phê duyệt Đề án tổng thể phát triển thể lực, tầm vóc người Việt nam đến năm 2030. Đây là những chương trình, đề án hết sức thiết thực đối với ngành TDTT trong việc nâng cao chất lượng phong trào TDTT quần chúng theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Hiện trạng phong trào TDTT quần chúng những năm qua có thể khái quát đánh giá như sau: Phong trào thể dục thể thao quần chúng tiếp tục phát triển sâu, rộng trên địa bàn cả nước, thể hiện ở sự tăng trưởng về số lượng người tập thể dục thể thao thường xuyên, sự phát triển đa dạng của các loại hình tập luyện, các câu lạc bộ thể dục thể thao và chất lượng hoạt động thể dục thể thao ở từng đối tượng.

Cuộc vận động "Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại" được triển khai liên tục trong những năm qua, đã phát huy hiệu quả thực tiễn và là động lực thúc đẩy phong trào thể dục thể thao ở cơ sở phát triển mạnh trong tất cả các đối tượng, đặc biệt là trong công nhân viên chức, lực lượng vũ trang, người cao tuổi, thanh thiếu niên, nông dân. Các hình thức tập luyện thể dục thể thao đơn giản, không cần đầu tư nhiều về sân bãi, trang thiết bị, như: chạy, đi bộ, thể dục dưỡng sinh, cầu lông, cờ tướng, võ thuật, bóng đá mini, bóng chuyền ... phát triển mạnh ở hầu hết các địa phương trong cả nước.

Từ năm 2005, Chính phủ đã chỉ đạo triển khai chương trình phát triển TDTT ở xã, phường, thị trấn đến năm 2010, giao cho ngành TDTT cùng các bộ, ngành ở Trung ương và Uỷ ban nhân dân các cấp thực hiện 4 nhiệm vụ đối với thể dục thể thao cấp xã. Đến nay, về cơ bản các nhiệm vụ: phát triển phong trào; xây dựng cơ chế quản lý, điều hành; bồi dưỡng cán bộ, cộng tác viên; quy hoạch đất và xây dựng cơ sở vật chất đã được các cấp uỷ Đảng và chính quyền chỉ đạo triển khai có kết quả.

Mỗi năm trong cả nước tổ chức hàng chục ngàn giải và Hội thi thể thao quần chúng ở cơ sở, điển hình là các hoạt động thể thao, trò chơi dân gian, thể thao dân tộc gắn với Lễ hội truyền thống ở mỗi làng quê; Hội thi thể thao gia đình, Hội thi thể thao vùng đồng bào dân tộc thiểu số, giải thể thao trong Ngày hội Văn hoá, Thể thao và Du lịch các vùng miền, giải Văn nghệ - Thể thao người khuyết tật…

Các mô hình câu lạc bộ TDTT, câu lạc bộ Văn hoá - Thể thao, Hội đồng TDTT, Trung tâm Văn hoá - Thể thao, Nhà Văn hoá - Thể thao, Cụm Văn hoá – Thể thao, các điểm vui chơi của trẻ em được thành lập ở cấp thôn, cấp xóm và trong các cơ quan, đơn vị đóng trên địa bàn đã tạo thành một hệ thống các thiết chế thể thao gắn với văn hoá hoạt động có hiệu quả, dưới sự chỉ đạo của cấp uỷ và sự điều hành của chính quyền địa phương, đáp ứng được nhu cầu của nhân dân và đảm bảo nguyên tắc của cải cách hành chính nhà nước. Hiện nay, cả nước có khoảng 35.000 câu lạc bộ thể dục thể thao các loại.

Cộng tác viên, hướng dẫn viên TDTT ở cơ sở được hình thành và được tập huấn nghiệp vụ hàng năm. Ủy ban nhân dân cấp xã quản lý, giao nhiệm vụ và vận dụng chế độ chính sách hỗ trợ để họ thực hiện nhiệm vụ truyên truyền vận động và tổ chức các hoạt động TDTT trên địa bàn.

Những nhiệm vụ cần triển khai

Cùng với những thành tích đã đạt được, phong trào TDTT quần chúng vẫn còn những tồn tại, yếu kém thể hiện ở chỗ: thể dục thể thao quần chúng phát triển mạnh nhưng chưa đều. Phong trào thể dục thể thao được duy trì khá nền nếp trong lực lượng vũ trang, người cao tuổi và công chức, viên chức; song, do nhiều nguyên nhân khách quan, có dấu hiệu giảm sút về chất lượng hoạt động trong thanh, thiếu niên học sinh và công nhân, người lao động tại các khu công nghiệp, khu đô thị lớn.

Điều kiện về sân bãi, trang thiết bị phục vụ tập luyện thể dục thể thao của người dân tại khu vực nông thôn, miền núi, hải đảo còn gặp nhiều khó khăn. Các công trình thể thao chủ yếu tập trung ở thành phố, thị xã; điều kiện tập luyện và mức độ hưởng thụ các giá trị của TDTT ngày càng có sự cách biệt giữa các vùng, miền và các đối tượng nhân dân. Do thiếu kinh phí, thiếu cơ sở vật chất và chưa có chính sách rõ ràng về cán bộ nghiệp vụ, hướng dẫn viên thể dục thể thao ở cấp xã, phường, thị trấn nên chất lượng hoạt động thể dục thể thao ở cơ sở chưa cao.

Những yếu kém tồn tại nói trên rất cần được nghiêm túc khắc phục, sửa chữa trong những năm tới; trước mắt cần xác định rõ nhiệm vụ phát triển TDTT quần chúng theo những nội dung cơ bản sau:

1. Tiếp tục thực hiện “Cuộc vận động toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại” gắn với triển khai phong trào xây dựng gia đình văn hóa; làng, bản, tổ dân phố, khu dân cư, cơ quan, đơn vị văn hóa ở các địa phương, các ban, ngành và đoàn thể.

Phấn đấu đến năm 2020 trong cả nước có 33% dân số thường xuyên tham gia tập luyện TDTT và có 25% số hộ gia đình luyện tập TDTT dưới mọi hình thức.

2. Tuyên truyền phổ biến hướng dẫn mọi đối tượng quần chúng tập luyện, tham dự thi đấu thể dục, thể thao trong các câu lạc bộ từng môn hoặc nhiều môn thể thao được thành lập, hoạt động ở các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, trường học, xã, phường và thị trấn.

3. Củng cố và tăng cường hệ thống thiết chế về quản lý các mô hình thể dục, thể thao quần chúng: câu lạc bộ thể dục, thể thao, mô hình điểm về phát triển thể dục, thể thao quần chúng đối với những vùng có mức độ phát triển kinh tế - xã hội đặc trưng.

+ Ban hành thiết chế văn hóa – thể thao đối với từng cụm, điểm dân cư gắn kết với quy hoạch sử dụng đất, xây dựng đô thị - nông thôn mới;

+ Ban hành và hướng dẫn thực hiện quy chế về tổ chức thi đấu, lễ hội thể thao, công tác phong danh hiệu, thể thao dân tộc và thể thao giải trí; xây dựng và ban hành hệ thống tiêu chí, chỉ tiêu về phát triển thể dục, thể thao quần chúng;

+ Thành lập, hướng dẫn và hỗ trợ hoạt động đối với các Hội đồng thể dục, thể thao, Câu lạc bộ thể dục, thể thao ở cấp xã;

 + Duy trì và hoàn thiện hệ thống thi đấu thể thao cho mọi người chu kỳ hàng năm, hai năm hoặc bốn năm…;

  + Ban hành chính sách khuyến khích và hỗ trợ phát triển thể dục, thể thao đối với các đối tượng xã hội đặc biệt, đồng bào dân tộc thiểu số, người cao tuổi, người khuyết tật.

4. Tiếp tục hỗ trợ đầu tư và ban hành các chính sách khuyến khích huy động các nguồn lực xã hội đầu tư cho phát triển thể dục, thể thao quần chúng. Khuyến khích phát triển thể thao giải trí, kinh doanh dịch vụ thể thao gắn với hoạt động văn hóa, du lịch.

5. Ban hành các quy chuẩn về quy hoạch đất đai cho thể dục, thể thao; tăng cường đầu tư xây dựng các sân chơi bãi tập, công trình thể thao trong quần thể Trung tâm văn hóa – thể thao cấp xã, cụm thôn – bản, thôn, bản.

6. Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, hướng dẫn viên thể dục, thể thao quần chúng; chú trọng tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn cho cộng tác viên thể dục, thể thao cấp xã và thôn, làng, bản.

7. Đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy, chính quyền cơ sở và các cán bộ ngành thể dục, thể thao về vai trò của hoạt động thể dục, thể thao, đặc biệt tại các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số

8. Xây dựng mô hình điểm về cơ sở vật chất và tổ chức hoạt động thể dục, thể thao tại các thôn, bản và xã; ưu tiên đào tạo nguồn nhân lực cho phát triển thể dục, thể thao ở các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

9. Đưa công tác sưu tầm, thống kê phân loại các trò chơi vận động dân gian trong các lễ hội truyền thống hàng năm của các dân tộc thiểu số thành một nội dung của nhiệm vụ sưu tầm, bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa phi vật thể các dân tộc Việt Nam; lựa chọn một số trò chơi vận động dân gian để đề xuất đưa vào thi đấu trong hệ thống thi giải thao quốc gia; chú trọng bảo tồn và phát triển các môn võ cổ truyền dân tộc.

10. Ban hành và hướng dẫn thực hiện quy chế hoạt động của các câu lạc bộ thể dục, thể thao người khuyết tật; đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ huấn luyện viên, hướng dẫn viên, cộng tác viên thể dục, thể thao người khuyết tật. Ban hành bổ sung các điều kiện đáp ứng nhu cầu tập luyện thể dục, thể thao của người khuyết tật trong quy chuẩn xây dựng cơ sở tập luyện, sân bãi thể thao; thí điểm xây dựng ở một số tỉnh, thành phố các Trung tâm huấn luyện thể thao cho người khuyết tật.

Để thực hiện được các mục tiêu, nhiệm vụ nói trên, Tổng cục TDTT cần chủ động phối hợp với các Cục, Vụ, đơn vị có liên quan để tham mưu cho Bộ trưởng chỉ đạo triển khai việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, tạo dựng cơ chế chính sách để quản lý điều hành các hoạt động TDTT quần chúng trong cả nước theo đúng tinh thần Nghị quyết Đại hội XI của Đảng.


TS.Lê Anh Thơ, Phó Bí Thư thường trực Đảng uỷ Bộ VH,TT&DL
(tdtt.gov.vn)

Bộ văn hóa, thể thao và du lịch
×